Sắm lễ đền Đông Cuông và văn khấn Mẫu Thượng Ngàn là chủ đề nhiều người quan tâm. Nhất là mỗi dịp xuân thu nhị kỳ, du khách về đây cầu tài, cầu lộc, cầu bình an… ngày một đông. Vậy khấn Mẫu Đông Cuông thế nào cho đúng cách? Hãy theo dõi ngay bài viết dưới đây.
THỜI GIAN NÊN ĐI LỄ ĐỀN MẪU ĐÔNG CUÔNG
Với niềm tin tâm linh sâu sắc, Đền Đông Cuông được coi là nơi linh thiêng, là lãnh thổ của Mẫu Thượng Ngàn, nơi ngự chính và cũng là nơi mà Mẫu Thượng Ngàn được cho là giáng sinh. Ngày nay, đây đã trở thành một điểm đến tâm linh hấp dẫn, thu hút đông đảo nhân dân và du khách từ nhiều nơi đến thăm và thực hiện hành trình hành hương chiêm bái.
Đặc biệt, vào dịp đầu xuân năm mới, từ tháng Giêng đến tháng 3 âm lịch, nhiều người sắm sửa hành hương để đến đền Mẫu Đông Cuông. Ngày Mão đầu, tức ngày 1/2 âm lịch, được xem là Ngày Tiệc Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn, khiến đền Đông Cuông trở nên ngập tràn sự hồi hương và sôi động, thu hút đông đảo du khách và thanh đồng trên khắp cả nước về tham gia lễ Mẫu và “bắc ghế hầu Thánh”.
VỊ TRÍ ĐỀN MẪU ĐÔNG CUÔNG TRONG THỜ MẪU THƯỢNG NGÀN
Theo những thần tích và truyền thuyết về Mẫu Thượng Ngàn, nàng công chúa Quế Hoa hiện linh tại Bắc Lệ (Lạng Sơn), trong khi Công Chúa La Bình làm nơi Suối Mỡ (Bắc Giang). Tuy nhiên, ở Đông Cuông, Mẫu Thượng Ngàn được tôn thờ với danh xưng Lâm Cung Thánh Mẫu.
Căn cứ vào truyền thuyết, Đền Công Đồng Bắc Lệ trở thành nơi linh thiêng, nơi Mẫu Thượng Ngàn hiển linh và âm phù. Đền Suối Mỡ lại được coi là kết quả của sự tu tiên luyện đạo của Mẫu, lưu giữ dấu vết quan trọng của bà. Trong khi đó, Đền Đông Cuông tại Yên Bái được xem là nơi Mẫu Thượng Ngàn giáng sinh và đặt ngôi ngự.
Niềm tin tâm linh của các đệ tử Đạo Mẫu đặc biệt vinh danh Đền Đông Cuông, xem nơi này như trung tâm tôn kính, nơi Mẫu thường trú và nơi quan trọng nhất đối với sự giáng sinh của Mẫu Thượng Ngàn.
MỘT SỐ TRUYỀN THUYẾT VỀ ĐỀN MẸ ĐÔNG CUÔNG
“Trong Kiến Văn Tiểu Lục, quyển X, mục Di vật thời Hậu Lê, Lê Quý Đôn viết:
“Văn Châu, một người lái đò ở xã Kính Chủ, huyện Thanh Ba (nay thuộc tỉnh Lâm Thao-Phú Thọ) là học trò của Hiếu như Nguyễn Đình Kính, vào giữa thời Bảo Thái (1720 – 1729) ông đến buôn Đông Quang.(nay thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái) bến sông này có miếu thờ Đông Quang Công chúa, xưa nay vẫn nổi tiếng anh dũng.
Tục truyền, Công chúa là vợ của Đại vương người đền Ngọc Tháp, huyện Sơn Vi (sau đổi là huyện Lâm Thao). Một hôm, trời đã tối, Văn Châu thấy một người từ chùa Đông Quang đi ra, đến chỗ thuyền đậu, gọi tên mà nói: “Khi nào thuyền ngươi trở về chùa Ngọc Tháp, phiền lòng giúp đỡ. Thần xin cảm tạ Đại vương, Thượng đế của ngài đã hạ sinh một đứa con trai, hãy nhắn tin cho đại vương biết.” Nói xong anh biến mất. Thuyền đi từ Đông Quang đến Ngọc Tháp phải mất ba bốn ngày, ngày ấy Văn Châu ra khơi từ sáng sớm, nhưng bây giờ Thân đã đến được Ngọc Tháp (nơi có dãy núi đá nhô ra trên bến sông). hình ruột ốc, chùa ở trên núi, cạnh chùa là chùa Lăng Nghiêm) Vân Châu theo lời thầy dặn, đứng ở đầu thuyền nói lại rồi ra về”.
Thần họ Hà, coi việc giữ đền và tế tự, ghi:
Công chúa Đông Quang là Lê Thị Kiểm. Bà là vợ của ông Hà Văn Thiện, người Tây Đông Cương được triều đình giao cai quản Đông Cương và vùng ven. Ông Thiện, hậu duệ của Hà Đắc, Hà Bổng Hoa) đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Họ sinh được một cậu con trai. Khi ông mất, bà Kiếm và con trai ở lại Đông Cuông và chết ở đó. Nhân dân lập đền thờ ông bên cạnh Ghềnh Ngãi (Hựu). ngạn sông Hồng) và thờ mẹ con bà ở tả ngạn, đối diện với miếu.
Trong nhân dân hai xã Đông Cuông và Ngòi A lưu truyền một truyền thuyết:
Ở xóm Đá Om, thôn Đồng Dẹt, xã Đông Cường có một giếng nước sâu và trong. Giếng nằm dưới chân gò, nơi ở của lãnh chúa họ Cám (tù trưởng bộ tộc Tày). Một hôm, con gái của tù trưởng là Cầm Thị La (Cầm Thị Lệ) ra giếng gội đầu. Vô tình làm rơi chiếc lược xuống giếng, cô vội vàng nhặt lên. Chiếc lược không thấy, chỉ thấy đáy giếng lộ ra một con đường rộng và sâu. Nàng đi theo con đường đó, đến Thủy Cung gặp Long Vương, lấy nhau, sinh con trai. Nhớ nhà, nàng bồng con trở về trần gian và hứa với Long Vương mỗi năm về thăm chồng một lần rồi đi một mình không mang theo con. Giếng Đồng Dẹt trở thành giếng thần. Rằm tháng giêng, xã chọn một thanh niên chưa vợ ra giếng để lọc lấy nước tinh khiết dâng cúng.
SẮM LỄ MẪU ĐÔNG CUÔNG
Theo truyền thống từ xa xưa, khi đến thăm Đình, Đền, Miếu, hay Phủ, việc mang theo lễ vật là một phong tục quan trọng. Không quan trọng lớn hay nhỏ, ít hay nhiều, quan trọng nhất vẫn là lòng thành kính và tâm tư chân thành. Lễ vật có thể bao gồm nhiều loại, từ toàn bộ các dụng cụ lễ phục đến những vật phẩm nhỏ như hương, hoa quả, và oản để đăng hương.
- Lễ Chay: trong lễ chay bạn cần chuẩn bị hương hoa, trà, quả, phẩm oản… để dùng khi lễ ban Phật, Bồ Tát. Lễ chay cũng thường được dùng để dâng ban Thánh Mẫu.
- Lễ Mặn: đồ trong lễ mặn bao gồm: đồ chay có hình gà, lợn, giò, chả…Vì trong khi tạ lễ thì nên ăn chay.
VĂN KHẤN MẪU THƯỢNG NGÀN ĐÔNG CUÔNG
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
Con kính lạy đức chúa Thượng Ngàn đỉnh thượng cao sơn triều mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương Ngọc điện hạ.
Con kính lạy Đức Thượng Ngàn chúa tể Mị Nương Quế Hoa công chúa tối tú tối linh, cai quản ba mươi sáu cửa rừng mười hai cửa bể.
Con kính lạy chư tiên, chư thánh chư thần, Bát bộ sơn trang, thập nhị tiên nương, thánh cô thánh cậu, Ngũ hổ Bạch xà Đại tướng.
Hương tử con là: ……………………………
Ngụ tại: …………………………………………..
Nhân tiết ………. chúng con thân đến …………. phủ chúa trên ngàn đốt nén tâm hương, kính dâng lễ vật, một dạ chí thành, chắp tay khấn nguyện, cúi xin lượng cả bao dung, thể đức hiếu sinh ra tay cứu vớt, độ cho chúng con cùng cả gia quyến bốn mùa được chữ bình an, tám tiết hưng long thịnh vượng, lộc tài quảng tiến, công việc hanh thông, giải vận giải hạn, biến hung thành cát, đổi họa ra tường, như ý sở cầu, tòng tâm sở nguyện.
Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn tấu.
Trên đây Xem ngày hoàng đạo vừa gửi tới bạn đọc những thông tin về văn khấn mẫu Đông Cuông. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu bổ ích nhé.